Phối hợp với địa phương, tỉnh Bến Tre đang vận động người dân và doanh nghiệp phát triển các mô hình nuôi tôm ứng dụng công nghệ cao. Đồng thời, đã có kế hoạch sử dụng dữ liệu ngành thủy sản để thực hiện dự án ứng dụng Map4D GIS Platform cho việc số hóa và quản lý nuôi tôm công nghệ cao trên diện tích 4.000 ha tại tỉnh Bến Tre.
Table of contents
ToggleSố liệu báo cáo thống kê
Theo Chi cục Thủy sản Bến Tre: Trong tháng 9/2023, tổng diện tích nuôi trồng thủy sản (NTTS) đạt mức 1.067 ha. Vượt cao hơn 169,9% so với cùng kỳ với tổng diện tích lũy kế đạt 47.642 ha. Tổng sản lượng NTTS trong tháng này ước đạt 36.678 tấn. Chiếm 72,02% so với kế hoạch, và 109,86% so với cùng kỳ, lũy kế đạt 240.923 tấn.
Xem thêm:
-
Bến Tre: Tổng sản lượng nuôi trồng thủy sản ước đạt trên 36 nghìn tấn
- Bản đồ số Map4D – Giải Pháp Thay Thế Google Maps Platform
- Chuyển đổi số làng nghề cây cảnh Vị Khê, Nam Định
Sản lượng thuỷ hải sản tăng cao nhờ ứng dụng công nghệ cao
Đặc biệt, trong lĩnh vực nuôi tôm nước lợ, hình thức nuôi tôm nước lợ thâm canh, bán thâm canh và siêu thâm canh (TC, BTC, STC) trong tháng 9 năm 2023 đã ước đạt 850 ha, với sản lượng tôm biển đạt 7.732 tấn, chiếm 87,9% so với cùng kỳ, và lũy kế đạt 36.283 ha. Các loại tôm như tôm quãng canh, tôm rừng, và tôm lúa đang phát triển bình thường. Tuy nhiên, do đang ở vào mùa mưa với nhiều cơn mưa kéo dài, nhiệt độ và độ mặn đột ngột giảm, dẫn đến nguy cơ dịch bệnh đốm trắng.
Trong lĩnh vực cá tra thâm canh, diện tích thả giống mới trong tháng 9 năm 2023 đã đạt 70 ha, và sản lượng thu hoạch ước đạt 25.040 tấn.
Về tôm càng xanh, trong mương và vườn, việc thả giống đang được tiến hành, và ước thu hoạch trong tháng 9 là 205 tấn.
Đối với nhuyễn thể, tình hình nuôi trồng nghêu trên địa bàn tỉnh Bến Tre đang ổn định, với ước tính sản lượng nhuyễn thể thu hoạch trong tháng 9 đạt 2.301 tấn, và lũy kế đến nay là 12.175 tấn, đạt 82,26% so với kế hoạch.
Các đối tượng nuôi khác như cá lóc, cá điêu hồng, cá lăng nuôi lồng bè đang phát triển tốt, với giá ổn định ở mức cao, góp phần tăng thu nhập cho các người nuôi.
Giá trị thuỷ hải sản cân bằng và ổn định
Mặc dù sản lượng thủy sản ổn định, thị trường tôm nước lợ vẫn đang đối mặt với giá thấp, gây khó khăn cho kinh tế người dân. Giá tôm thẻ chân trắng loại 100 con/kg dao động từ 74 nghìn đến 76 nghìn đồng/kg; loại 40 con/kg, giá dao động từ 102 nghìn đến 107 nghìn đồng/kg. Giá tôm sú đã giảm so với tháng 8 năm 2023, dao động từ 130 nghìn đến 135 nghìn đồng/kg loại 40 con/kg; từ 145 nghìn đến 150 nghìn đồng/kg loại 30 con/kg.
Các con số về giá cá tra nguyên liệu dao động từ 25.500 đến 26.500 đồng/kg. Giá bán tôm càng xanh nguyên liệu loại nhất 6-8 con dao động từ 300 nghìn đến 320 nghìn đồng/kg, loại 1012 con dao động từ 200 nghìn đến 220 nghìn đồng/kg, và với giá tôm này, đa số người nuôi có lãi. Giá nghêu thịt dao động từ 16 nghìn đến 25 nghìn đồng/kg cỡ nghêu 40-80 con/kg.
Quy mô triển khai
Ngoài việc cập nhật về sản lượng và giá cả, cơ quan chức năng của tỉnh Bến Tre đã kiểm tra và duy trì 44 cơ sở đủ điều kiện sản xuất và ương dưỡng giống thủy sản. Tổng cộng có 8 cơ sở tạm ngưng hoạt động và 1 cơ sở chấm dứt hoạt động, nhưng còn lại các cơ sở khác đều tuân thủ và duy trì đủ điều kiện. Có 01 cơ sở đã được cấp giấy chứng nhận điều kiện NTTS.
Bên cạnh việc kiểm tra và duy trì các cơ sở, tỉnh Bến Tre cũng đã cấp mới và cấp lại giấy chứng nhận cho 39 cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm (ATTP). Trong đó, có 03 cơ sở ATTP đạt loại A. Cơ quan chức năng cũng đã hướng dẫn địa phương hỗ trợ người nuôi đăng ký đối tượng nuôi chủ lực theo quy định. Lũy kế đến nay có 629 cơ sở đã đăng ký, với tổng diện tích là 1.854,71 ha, trong đó có 66 cơ sở nuôi cá với tổng diện tích 537,88 ha và 563 cơ sở nuôi tôm với tổng diện tích 1.316,83 ha.
Hơn nữa, cơ quan chức năng đã phối hợp với Tập đoàn Minh Phú để đánh giá và cấp chứng nhận BAP và ASC cho vùng nuôi tôm thâm canh quy mô 66 ha tại huyện Thạnh Phú. Hiện đang lựa chọn nhà tư vấn để xây dựng hồ sơ chứng nhận tiêu chuẩn ASC cho vùng nuôi tôm ứng dụng công nghệ cao (UDCNC) quy mô 90 ha. Ngoài ra, tỉnh Bến Tre tiếp tục tham gia hỗ trợ thành lập hợp tác xã (HTX) nuôi tôm UDCNC tại huyện Ba Tri và Thạnh Phú.
Công tác quản lý
Công tác quản lý NTTS không chỉ dừng lại ở quy hoạch. Tại tỉnh Bến Tre hiện đã có 1.066 giếng khoan lấy nước mặn để nuôi thủy sản (tôm thẻ chân trắng), tập trung chủ yếu tại 03 huyện ven biển. Trong số này, đã có 319 giếng đã được trám lấp tại huyện Thạnh Phú, còn lại 747 giếng đang được kiểm tra và vận động trám lấp tại huyện Ba Tri, Thạnh Phú, và Mỏ Cày Nam.
Thời gian qua, các ngành chức năng đã tổ chức nhiều đợt kiểm tra, thanh kiểm tra và nhắc nhở các trường hợp NTTS để tuân thủ các quy định về đất đai, tài nguyên nước, bảo vệ môi trường. Điều này đã dẫn đến xử lý 07 trường hợp vi phạm về đất đai, với số tiền phạt là 52,5 triệu đồng.
Tính đến hiện tại, tổng diện tích nuôi tôm ngoài vùng quy hoạch là 722.875 ha với sự tham gia của 2.771 hộ. Tập trung nhiều nhất tại huyện Bình Đại với tổng 1.569 hộ và 484,165 ha.
Ứng dụng Map4D GIS Platform cho việc số hóa và quản lý nuôi tôm công nghệ cao
Từ Kế hoạch nuôi tôm UDCNC quy mô 4.000 ha, đã có 469 ha mới được phát triển, chiếm tỷ lệ 92,6% so với kế hoạch, với tổng diện tích nuôi tôm UDCNC lũy kế đạt 3.036 ha. Hiện đang tiến hành lựa chọn đơn vị tư vấn để xây dựng hồ sơ chứng nhận tiêu chuẩn ASC cho doanh nghiệp nuôi tôm UDCNC quy mô 90 ha tại huyện Thạnh Phú.
Phối hợp với địa phương, tỉnh Bến Tre đang vận động người dân và doanh nghiệp phát triển các mô hình nuôi tôm UDCNC. Đồng thời, đã có kế hoạch sử dụng dữ liệu ngành thủy sản để thực hiện dự án ứng dụng Map4D GIS Platform cho việc số hóa và quản lý nuôi tôm công nghệ cao trên diện tích 4.000 ha tại tỉnh Bến Tre.
Định hướng tương lai
Trong thời gian tới, tỉnh Bến Tre sẽ tiếp tục tập trung quản lý NTTS và thực hiện các giải pháp để đạt được các mục tiêu đã đề ra. Các hoạt động tuyên truyền và hướng dẫn dành cho người dân và doanh nghiệp sẽ tiếp tục được triển khai, đồng thời, cơ quan chức năng sẽ kiểm tra định kỳ các cơ sở đủ điều kiện ương dưỡng giống thủy sản.
Ngoài ra, công tác quản lý về môi trường và ATTP cũng sẽ được theo dõi và cải thiện thường xuyên. Mục tiêu là đảm bảo rằng ngành NTTS tại tỉnh Bến Tre sẽ tiếp tục phát triển bền vững và góp phần vào tăng cường kinh tế địa phương.